KIẾN TRÚC NHÀ THỜ CÔNG GIÁO BẮC BỘ (phần 1)(08/12/2017)

Công giáo du nhập vào nước ta từ thế kỷ XVI, qua quá trình lâu dài và trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử đã có số lượng cơ sở thờ tự khá nhiều và đồ sộ.

Do đặc điểm lịch sử truyền giáo, hình thức kiến trúc nhà thờ công giáo bắc bộ chịu nhiều ảnh hưởng của các phong cách kiến trúc Châu âu đã phát triển trước đó: Gothich, Roman, Phục hưng, Barocque.

Tuy là loại hình kiến trúc du nhập nhưng cũng như các loại hình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng khác, kiến trúc nhà thờ đã có sự thích ứng, hòa hợp với văn hóa và kiến trúc cổ truyền Việt Nam từ tổ chức quy hoạch tổng thể, hình thức kiến trúc, giải pháp kết cấu, trang trí mỹ thuật và sử dụng vật liệu. Sự vận dụng sáng tạo này trong xây dựng nhà thờ công giáo đã tạo nên những công trình kiến trúc thể hiện sự kết hợp Âu – Á độc đáo. Nổi bật của sự kết hợp này chính là loại hình công trình nhà thờ vận dụng kết cấu chính là bộ khung gỗ truyền thống, mái lợp ngói với hình thức mặt đứng và trang trí theo thức Châu âu.

Kiến trúc nhà thờ khác biệt dễ nhận diện trong tổng thể kiến trúc và tương tự như đình chùa là gần gũi, gắn bó với làng xóm và người dân Việt Nam, hòa hợp với cảnh sắc chung của địa phương. Công trình không chỉ đơn thuần phục vụ nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng mà còn là những tác phẩm nghệ thuật kiến trúc có giá trị, một số tiêu biểu còn gắn liền với địa danh khu vực. Nhà thờ với nhiều phong cách kiến trúc giữa trong và ngoài nước tạo bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc, nhưng vẫn mang đặc trưng riêng biệt của kiến trúc nhà thờ công giáo Việt Nam, và đặc biệt là thành phần đóng góp tích cực trong công tác tạo lập bản sắc kiến trúc dân tộc.

Bài viết này được viết dựa trên kết quả của dự án “Điều tra, khảo sát, đánh giá giá trị kiến trúc loại hình nhà thờ công giáo Bắc bộ tại Việt Nam” do phòng Nghiên cứu lịch sử kiến trúc – Viện kiến trúc quốc gia thực hiện, phạm vi giới thiệu trong bài viết về phân loại nhà thờ công giáo Bắc bộ dưới góc độ kiến trúc.

1. Phân loại theo kiến trúc

Nhà thờ công giáo Việt Nam nói chung và Bắc Bộ nói riêng có thể quy về hai phong cách kiến trúc, đó là kiến trúc theo phong cách châu Âu (dân gian quen gọi là nhà thờ Tây) và kiến trúc theo phong cách dân tộc Việt Nam (dân gian quen gọi là nhà thờ Nam).

1.1. Nhà thờ Tây:

Nhân diện hình thức kiến trúc: Nhà thờ kiến trúc theo phong cách châu Âu chia ra nhiều phong cách: Gothic, Roman, Tây Ban Nha… nhưng phổ biến tại Việt Nam vẫn là lối kiến trúc Gothic (kiến trúc đã được biến thể hay giản lược).

Nhà thờ ở thành phố có điều kiện về kinh tế thường có qui mô lớn, phong cách Gothic tương đối rõ nét. Những nhà thờ đạo vùng quê cũng theo phong cách đó nhưng được giản tiện, quy mô nhỏ, vòm mái đơn giản, dân gian quen gọi là vòm gọng vì nó như gọng vó bè. Cũng được liệt vào loại nhà thờ “Tây” nhưng đó là lối kiến trúc giản thể, mô hình tháp chuông nhọn, trang trí, họa tiết được lấy từ nhà thờ châu Âu. Loại hình này phổ biến ở các xứ họ đạo. Kiểu nhà thờ giản thể này thường do người Việt thiết kế, thi công phù hợp với điều kiện xây dựng đặc biệt là kinh phí lúc bấy giờ.

Lối kiến trúc Gôthic với hình tiêm, vòm mái đòi hỏi một kỹ thuật xây dựng mới khác với lối kiến trúc truyền thống của người Việt.Những người thợ Việt Nam qua việc xây dựng những công trình kiến trúc này tiếp cận với những kỹ thuật xây dựng mới.Kiến trúc nhà ở và kiến trúc tôn giáo truyền thống cho đến thời điểm nửa cuối thế kỷ XIX vật liệu nhà thờ chủ yếu vẫn là gỗ với bộ vì, rui, mè, cột, cửa. Kiến trúc nhà thờ “Tây” vật liệu lại là bê tông cốt thép. Người thợ xây dựng Việt Nam qua việc xây dựng nhà thờ “Tây” có điều kiện học hỏi lối trang trí, họa tiết trong nhà thờ châu Âu như trang trí mặt tiền nhà thờ, trang trí cửa sổ, cửa ra vào, trang trí tháp chuông. Đó còn là trang trí những vòm nhỏ hai bên hông và vòm lớn trên cung thánh nơi dùng để đặt tượng Thiên Chúa, tượng Đức mẹ Maria và các thánh.

image001

Nhà thờ lớn Hà Nội

– Công tình tiêu biểu:

+ Nhà thờ Kẻ Sở (Ninh Phú, Kiện Khê, Thanh Liêm, Hà Nam), xây năm 1887, hoàn thành năm 1892, tác giả vẽ mẫu thiết kế là Puginier, giám mục thuộcđịa phận Tây Bắc Kỳ.

+ Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn: năm xây dựng 1877- 1880, chỉ đạo thi công là kiến trúc sư Bourd, thợ xây Việt Nam. Tường nhà thờ được xây bằng gạch trần, đặc, không ngấm nước, không phai màu, không bắt bụi, không mọc rêu, sản xuất ở Mácxây (Pháp).

+ Nhà thờ Lớn Hà Nội: xây dựng đến cuối năm 1887.

1.2. Nhà thờ Nam:

a. Phong cách hỗn hợp (giữa kiến trúc nhà thờ Tây và Nam)

Cùng với lối kiến trúc theo phong cách nhà thờ “Tây” là lối kiến trúc theo phong cách dân tộc Việt Nam mà dân gian quen gọi là nhà thờ Nam. Có thể nói thời kỳ từ khi công cuộc truyền giáo phát triển đạo Công giáo ở Việt Nam thu được kết quả cho đến nửa cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nhà thờ Công giáo ở Việt Nam đều được kiến trúc theo phong cách dân tộc Việt Nam. Lối kiến trúc này vẫn được tiếp tục ở giai đoạn sau đó.

+ Nhận diện hình thức kiến trúc:

Có loại nhà thờ Nam, bên trong kết cấu gỗ truyền thống nhưng vỏ ngoài lại mang dáng dấp nhà thờ Tây với đặc trưng tháp chuông nhọn, cao vút, mặt tiền trang trí như nhà thờ Tây.

 Nhà thờ xứ Hà Hồi - Hà Nội

Nhà thờ xứ Hà Hồi – Hà Nội

+ Công trình tiêu biểu:Nhà thờ xứ Hà Hồi (xã Hà Hồi, h. Thường Tín, Hà Nội), Yên Trì (Hiệp Hoà, Yên Hưng, Quảng Ninh)…

b. Phong cách thuần Nam

+ Nhận diện hình thức kiến trúc:

Nhà thờ kiến trúc theo phong cách Á Đông:bên trong kết cấu gỗ truyền thống, bên ngoài hình thức kiến trúc Á Đông. Hình thức mặt đứng chính với kiểu mặt tiền phía trước kiểu tam quan như đình chùa, trang trí mái cong uốn đao chồng diềm nhiều tầng mái, hoặc trang trí hoa văn tổng thể toát lên truyền thống Á Đông.

Nét đặc trưng của nhà thờ thuần Nam là không có tháp chuông cao vút gắn với mặt tiền nhà thờ, tháp chuông có thể được làm rời.

+ Công trình tiêu biểu: nhà thờ Hảo Nho(xã Yên Lâm, h. Tam Hiệp, tỉnh Ninh Bình), Bình Sa, (xã Lai Thành, h. Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình), Trung Lao(xã Trung Đông, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định), Thôn Đông (Xuân Phương, Xuân Trường,Nam Ðịnh), Ba Làng (xã Hải Thanh, h.Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa)… đặc biệt là khu quần thể thánh đường Phát Diệm (Thị trấn Phát Diệm, h.Kim Sơn, Ninh Bình).

Nhà thờ Hảo Nho - Ninh Bình

Nhà thờ Hảo Nho – Ninh Bình

2.Phân loại theo tháp chuông:Phân loại theo hình thức nhà thờ nhiều khi chỉ mang tính tương đối, vì hình thức, chi tiết kiến trúc Tây và Nam trên mặt đứng công trình thường có sự đan xen nhau, không phải hoàn toàn là một loại phong cách. Vì vậy, nếu thấy hình thức tổng thể toát lên phong cách kiến trúc nào thì ta xếp loại một cách tương đối sang phong cách đó.

(Cách thức phân loại này được các nhà nghiên cứu trường đại học Tokyo – Nhật bản nhận diện sau khi khảo sát tổng quan nhà thờ kết cấu gỗ tại một số tỉnh Bắc Bộ).

2.1.Tháp chuông rời:

+ Nhận diện hình thức kiến trúc:

Nhà thờ có tháp chuông rời là tháp chuông không gắn với nhà thờ chính mà nằm độc lập bên ngoài.Kiểu này thường gặp ở nhà thờ thuần Nam.Một số ít nhà thờ Tây có tháp chuông rời kiểu này đã tạo nên nét độc đáo riêng cho công trình.

Tháp chuông rời thường bố trí đăng đối hai bên phía trước nhà thờ chính, một số còn làm thành cổng vào có rào nối giữa hai tháp chuông.Có nơi chỉ có một tháp chuông ở chính giữa phía trước.

Kiến trúc tháp chuông kiểu Tây có mặt bằng hình vuông, nhiều tầng thu dần lên cao, các tầng trổ cửa vòm cong kiểu kiến trúc phương Tây, hình thức lặp đi lặp lại.

Kiến trúc tháp kiểu Á Đông thường kiểu giống Tam quan chùa, gồm 2 tầng: tầng đế đỡ lầu tháp mái ngói cong uốn đao, chồng diềm nhiều tầng mái, trang trí chi tiết Á Đông…

Nhà thờ Kẻ Sặt - Hải Dương

Nhà thờ Kẻ Sặt – Hải Dương

+ Công trình tiêu biểu: nhà thờ Trung Lao (xã Trung Đông, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định)có tháp chuông tạo thành cửa ra vào bên trong nhà thờ. Nhà thờ Xuân Hà (xã Hải Đông, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định)có 1 tháp chuông ở phía trước. Khu quần thể thánh đường Phát Diệm(thị trấn Phát Diệm, h.Kim Sơn, Ninh Bình) đặc biệt có tháp chuông tách rời ở phía trước kiến trúc như tam quan chùa. Nhà thờ Kẻ Sặt (xã Tráng Liệt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) kiến trúc phương Tây nhưng có tháp chuông rời phía trước.Một số nhà thờ còn có thêm tháp chuông nhỏ nữa ở bên sườn nhà thờ chính (thường tháp cao phía trước để chuông Tây, tháp nhỏ để chuông ta).

2.2.Tháp chuông liền:

 Nhà thờ chánh tòa Hưng Hóa (Sơn Tây) - Hà Nội


Nhà thờ chánh tòa Hưng Hóa (Sơn Tây) – Hà Nội

+ Nhận diện hình thức kiến trúc:

Nhà thờ có tháp chuông gắn liền với nhà thờ chính.Kiểu này thường gặp ở nhà thờ Tây hoặc nhà thờ Nam kiểu hỗn hợp.

Tháp chuông thành một khối kết cấu riêng nối chung nhau ở các tầng đế, lên trên lại chia thành các tháp khác nhau. Thường vẫn phổ biến kiểu hai tháp chuông đối xứng hai bên hoặc chỉ một tháp nhọn ở giữa.Một số ít khác kiểu là có ba tháp chuông tạo nên sự độc đáo khác biệt (nhà thờ Hà Hồi – xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội).

Ở phong cách kiến trúc mới như kiến trúc Đông Dương, đã có tiếp nhận của nghệ thuật hiện đại, kiến trúc không còn đăng đối, lúc này tháp chuông chỉ có một và lệch về bên hông của nhà thờ (nhà thờ Cửa Bắc – phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội) tạo nên sự độc đáo phá cách của công trình.

Tiếp nối sau đó là kiểu thức tháp chuông hiện đại hơn, vật liệu mới, kiến trúc không còn tầng cấp mà khoe kết cấu (bằng dàn thép)…

+ Công trình tiêu biểu: nhà thờ Hà Hồi – xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội.

3. Phân loại theo vật liệu xây dựng:

Tùy theo vật liệu xây dựng chủ yếu của nhà thờ chính mà ta có các loại nhà thờ khác nhau.

3.1. Nhà thờ gạch:

+ Nhận diện hình thức kiến trúc:

Nhà thờ kiểu này có kết cấu bền vững là gạch, bê tông chịu lực. Gạch cũng thường được trát vữa bảo vệ. Chỉ có một số ít công trình theo trường phái thô mộc để gạch mộc tạo sự độc đáo.

+ Công trình tiêu biểu: Thánh đường Đan viện Xi Tô Châu Sơn (Ninh Bình) gạch để mộc, các gờ chỉ trang trí dật cấp cũng từ gạch.Độc đáo ở đây là gạch nung được sản xuất tại địa phương, khác với loại gạch sử dụng xây dựng nhà thờ lớn Đức Bà ở Sài Gòn là gạch nhập khẩu từ nước ngoài.

Thánh đường Đan viện Xi Tô Châu Sơn - Ninh Bình

Thánh đường Đan viện Xi Tô Châu Sơn – Ninh Bình

3.2. Nhà thờ gỗ:
+ Nhận diện hình thức kiến trúc:

Nhà thờ có kết cấu gỗ truyền thống hay còn gọi là nhà thờ Nam. Loại hình này còn số lượng khá lớn tại Bắc Bộ.

Nhà thờ này thường ở các vùng quê, có giá trị về kiến trúc – nghệ thuật, nhất là bản sắc kiến trúc.Hiện loại hình kết cấu này không còn được tiếp nối xây dựng nên đối với những công trình còn tồn tại trên dưới 100 năm là rất có giá trị.

+ Công trình tiêu biểu: Nhà thờ Bình Sa, nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình), nhà thờ Xuân Hà (Nam Định)…

 Ảnh chụp nhà thờ Xuân Hà - Nam Định


Ảnh chụp nhà thờ Xuân Hà – Nam Định

3.3. Nhà thờ đá:

+ Nhận diện hình thức kiến trúc:

Nhà thờ có toàn bộ kết cấu bằng đá.Kiểu này thường sử dụng vật liệu của địa phương.Số lượng công trình kiểu này không nhiều nên tạo sự độc đáo. Đặc biệt đối với những công trình bằng đá theo lối kiến trúc truyền thống thì chạm khắc đá cầu kỳ như gỗ, đem lại đỉnh cao cho kỹ thuật cũng như nghệ thuật truyền thống Việt Nam, trở thành công trình không những nổi tiếng trong nước mà còn ra thế giới, thu hút du lịch.

Ảnh chụp nhà thờ đá Phát Diệm - Ninh Bình

Ảnh chụp nhà thờ đá Phát Diệm – Ninh Bình

+ Công trình tiêu biểu: Nhà thờ đá thuộc quần thể nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình), nhà thờ đá Sa Pa (Lào Cai).

Kiến trúc nhà thờ công giáo Bắc Bộ rất đa dạng về phong cách kiến trúc, vật liệu.Sự xuất hiện của nhà thờ Công giáo ở Việt Nam đã đưa đến những hình thức kiến trúc mới, vật liệu xây dựng mới.Người thợ Việt Nam tiếp cận với lối kiến trúc Gôthic được đưa nguyên mẫu từ phương Tây.Song những người thợ Việt Nam tài hoa dựa trên nguyên mẫu mà tạo ra những kiểu dáng mới, có thể là Gôthic biến thể hay giản lược. Cũng có khi là lối kiến trúc giao thoa “Vỏ Tây, ruột Nam”, rồi thuần Nam…+ Công trình tiêu biểu: Nhà thờ đá thuộc quần thể nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình), nhà thờ đá Sa Pa (Lào Cai).

Nhà thờ Nam Công giáo là một sáng tạo trong kiến trúc của Công giáo Việt Nam, là tư liệu sống động về sự hội nhập văn hóa.

Nhà thờ Công giáo Việt Nam – một loại hình văn hóa vật chất – vì vậy đã có một vị trí nhất định trong kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam.

Ths.KTS Đỗ thị Thu Vân – Phòng nghiên cứu lịch sử kiến trúc

Viện Kiến trúc Quốc gia

 

bình luận